Showing posts with label Phương pháp học Toán. Show all posts
Showing posts with label Phương pháp học Toán. Show all posts
Monday, March 7, 2016
On 7:54 AM by MATH CHANNEL in Phương pháp học Toán 1 comment
Một
điều đáng tiếc cho nhiều bạn học toán là các bạn rất vất vả trong việc giải
toán. Có bạn đã khổ tâm nhiều khi không làm được những bài toán thầy cho về
nhà, nhất là các bài toán ra trong kì thi hoặc kiểm tra trong điều kiện thời
gian hạn chế. Tự kiểm điểm bạn ấy thấy rằng đã hết sức cố gắng học toán, tin tưởng
là mình đã nắm vững các kiến thức cơ bản, đã hiểu các bài học đã xoay bài toán đủ
mọi cách nhưng cuối cùng vẫn bế tắc không tìm ra lời giải. Về sau xem lời giải
những bài toán bế tắc ấy thì thấy rằng ở đây không có gì khó khăn lắm về mặt
nguyên tắc vì sử dụng toàn những kiến thức cơ bản mà mình đã biết, bài giải nhiều
khi rất đơn sơ nhưng chỉ tại mình hoặc thiếu sót chút ít, hoặc không nghĩ đến
cách giải ấy.
Các
bạn học sinh, các bạn đã suy nghĩ thật chín chắn chưa, rằng vì sao lại xãy ra
những hoàn cảnh “éo le” như vậy?
Ai
cũng thấy rằng học thuộc bài học hoàn toàn không đủ, mà phải biết vận dụng những
kiến thức ấy và rèn luyện kĩ năng trong việc giải toán. Số các bài toán nhiều
không kể xiết, mỗi bài mỗi vẻ, thời gian học tập lại hạn chế, do đó cần biết
rèn luyện phương pháp suy nghĩ đúng đắn và biết đúc kinh nghiệm: tác giả muốn
trao đổi với các bạn vài kinh nghiệm như vậy.
Thật
ra những kinh nghiệm ấy vô cùng phong phú, nhiều không kể xiết cũng như số các
bài toán. Ở các bài viết trước, chúng ta đã được hướng dẫn “Cách giải một bài
toán”, trong đó tác giả đã nêu lên các bước và một số kinh nghiệm trong giải
toán. Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả chỉ đề cập vấn đề rèn luyện óc phân
tích một bài toán qua việc phân tích tính đặc thù của bài toán. Việc phân tích
bài toán nghe khá hiển nhiên, nhưng vận dụng được vào từng hoàn cảnh cụ thể, từng
bài toán lại là một việc hết sức khó. Vì vậy, tác giả nghĩ rằng tốt nhất là nêu
lên thêm một số ví dụ minh họa.
Ta
xét ví dụ sau: Tôi có một tờ giấy to và xé nó ra làm 9 mảnh. Sau đó, lấy một số
mảnh, xé mỗi mảnh thành 9 mảnh nhỏ, rồi trộn vào với các mảnh cũ. Tôi lại lấy một
số mảnh trong đống giấy ấy, xé mỗi mảnh làm 9 mảnh rồi lại trộn vào với các mảnh
cũ và cứ thế tiếp tục. Lúc sau tôi dừng lại và nhờ bạn tôi đếm số mảnh giấy có được,
anh nói: 1968. Hãy chứng minh rằng anh ấy đếm... sai!
Thoạt
nhìn bài toán này, chắc các bạn cảm thấy vấn đề ở đây quá rắc rối, vì người ta
không cho biết mỗi lần xé thì lấy bao nhiêu mảnh giấy xé và cũng không cho biết
bao nhiêu lần xé như vậy. Thành thử chắc chắn rằng không thể biết cuối cùng tổng
cộng có bao nhiêu mảnh giấy mà lại phải chứng minh rằng đếm sai.
Nhưng
chúng ta hãy bình tĩnh để hình dung và phân tích kĩ quá trình “xé giấy” trong
bài toán: mỗi lần từ đống giấy lấy lên một mảnh, xé nó làm 9, rồi lại bỏ vào đống
giấy thì rõ ràng số mảnh giấy tăng lên 8. Bắt đầu có một mảnh giấy, như vậy cuối
cùng số mảnh giấy xé được sẽ là 1 + 8k, với k nguyên dương. Vì số 1968 không có
dạng 1 + 8k, nên anh bạn trên đếm sai!
(Trích từ bài viết của Phan Đức Chính)
Sunday, January 10, 2016
On 5:09 AM by MATH CHANNEL in Phương pháp học Toán 1 comment
HÃY CẨN THẬN VỚI BÀI TOÁN...KHÔNG RÕ NGUỒN GỐC!
Chúng ta hãy cẩn thận với những
bài toán... không rõ nguồn gốc xuất xứ nhé. Đó có thể là những bài toán mà giả
thiết hay điều kiện bị sai hoặc không tồn tại, số liệu vô lý hoặc không chặt chẽ.
Khi giải phải những bài toán này có khi các bạn sẽ bị bế tắc hoặc sẽ hơi bị ...
ngố đấy!
Bài toán 1. Bạn A nhảy cao 7m, bạn B nhảy cao hơn bạn A 1m. Hỏi bạn B
nhảy cao bao nhiêu mét?
Lời giải.
Bạn B nhảy cao được:
7 + 1 = 8 (m)
ĐS: 8m
Bình luận:
Chúng
ta đã từng thấy ai nhảy cao như bạn A và B vậy chưa!
Bài toán 2. Có 16 xe vừa ôtô vừa xe đạp, tất cả có 40 bánh xe. Hỏi có mấy
xe ôtô, mấy xe đạp?
Lời giải.
Gọi số xe ôtô và xe đạp lần lượt là x và y (x, y > 0)
Theo đề bài, ta có:$x + y = 16$ và $4x + 2y = 40$
Giải hệ phương trình $\begin{cases}x + y = 16\\4x + 2y = 40\end{cases}$ (với x, y > 0) ta được $\begin{cases}x = 4\\y = 12\end{cases}$
ĐS: 4 ôtô, 12 xe đạp
Bình luận:
Có bạn cho rằng lời
giải như trên là đúng, nhưng có bạn lại ko đồng ý vì cho rằng đề bài không nhắc
đến xe ôtô có 4 bánh và xe đạp có 2 bánh vì trong thực tế có xe ôtô 6 bánh, 8
bánh... cũng như xe đạp có 3 bánh, 4 bánh! Bạn suy nghĩ gì về đề toán?!
Bài toán 3. Hai máy bay khởi hành
cùng một lúc từ hai sân bay A, B cách nhau 320km và bay ngược chiều. Máy bay
bay từ A có vận tốc hơn máy bay bay từ B 10km/h. Sau 4 giờ hai máy bay gặp
nhau. Tìm vận tốc của mỗi máy bay.
Lời giải.
Tổng vận tốc của hai máy bay
là: $320:4 = 80$ (km/h)
Vận tốc của máy bay bay từ A
là: $\left( {80 + 10} \right):2 = 45$ (km/h)
Vận tốc của máy bay bay từ B
là: $80 - 45 = 35$ (km/h)
ĐS: 45 km/h, 35 km/h
Bình luận:
Chắc
hẳn các bạn cũng đồng ý rằng lời giải chuẩn rồi và lỗi ở đề toán, tác giả đề
toán đã cho máy bay bay chậm hơn xe máy rồi! Thật là buồn cười. Chưa nói đến
hai máy bay mà gặp nhau thì ko biết điều gì sẽ xãy ra nữa.
Saturday, January 9, 2016
On 7:55 PM by MATH CHANNEL in Phương pháp học Toán 1 comment
CÁC
SAI LẦM TRONG PHƯƠNG PHÁP HỌC TOÁN
1) Lướt qua các bài toán cơ bản và
dành nhiều thời gian cho các bài toán "đố"
Nhiều
bạn học sinh coi thường các bài toán cơ bản, đơn giản mà không dành nhiều thì
giờ ôn tập chúng, chỉ cố giải và học thuộc các bài toán khó. Thực ra, đa số các
bài toán tổng hợp phức tạp là sự kết hợp nhiều bài toán cơ bản, cho nên chúng
ta sẽ giải được các loại toán này nếu chúng ta thành thạo các bài toán cơ bản
và biết được những thủ thuật giải rất đặc biệt và thường ít gặp trong toán học
(ngay cả trong nghiên cứu toán học), ta gọi chúng là cái bài toán đố
(hiểu theo nghĩa rộng, chứ không hẳn là các bài toán thực tế cho bằng lời văn).
Việc giải các bài toán phức tạp rất mất thời gian, trong các bài toán thì thông
thường tỉ lệ các bài toán đố ít hơn 15%, vì thế bạn dành nhiều hơn 15%
thời gian học tập cho chúng là vô lý!
2) Không ôn tập các bài học cũ
Sự
tiến bộ của việc giải toán dựa trên các dạng toán và các phương pháp giải mà ta
tích lũy được chứ không hẳn là số lượng bài toán đã giải được. Cho nên học
nhiều mà không tìm cách nhớ những gì mình học là vô ích, chỉ có cách ôn tập
chúng ta mới có thể nhớ lâu các kiến thức đã học. Có thể chúng ta mất rất nhiều
thời gian cho lần giải đầu tiên cho một bài toán nhưng những lần ôn tập sau càng
ôn tập nhiều thì thời gian giải càng tốn ít hơn, thành quả thu lại cũng to hơn
khi chúng ta được khắc sâu bài toán. Yếu tố thời gian rất quan trọng trong lúc
kiểm tra, thi cử. Chúng ta phải thành thạo như máy và làm nhanh như chớp tất cả
các dạng toán đã làm qua, để dành tối đa thời gian làm bài cho các bài toán có
vẻ lạ. Chỉ có cách ôn tập bài cũ thường xuyên chúng ta mới có thể đạt được kỹ
năng trên.
3) Cái gì cũng ôn
Nếu
không ôn tập thì tệ hại nhưng tệ hại không kém nếu không biết cách ôn tập.
Chúng ta không có nhiều thì giờ cho mọi việc, nhất là việc ôn tập khá nhàm
chán.
Sau
khi học xong một chương, ta nên ôn lại tất cả các bài tập ở các chương trước đó
trước khi sang chương tiếp theo, đánh dấu các bài toán mà ta giải còn ngập
ngừng. Và cứ thế tiếp tục cho đến chương cuối, lặp lại việc này cho tới khi
không còn bài nào ngập ngừng nữa. Khi ôn tập ta ôn theo các dạng toán, để ý các
bài ta hay làm sai, các bài khó nhớ cách giải, xem lại những cái sai ta từng
mắc phải để tránh ở những bài tương tự. Chúng ta sẽ rất phí thời gian để làm
lại một việc vô ích: giải đi giải lại các bài toán mà chúng ta đã thuộc nằm
lòng rồi!

Tuesday, December 22, 2015
On 11:16 PM by MATH CHANNEL in Phương pháp học Toán 1 comment
Việc rèn luyện giải toán bao gồm hai nội dung chủ yếu:
1. Rèn luyện việc tìm lời giải các bài toán
2. Rèn luyện việc giải bài toán
Có thể mô tả hoạt động trên thành hai công đoạn theo mô hình:
Rèn luyện khả năng tìm lời giải các bài toán là khâu có tính chất quyết định trong toàn bộ hoạt động rèn luyện giải toán vì dù có kĩ thuật cao, có thành thạo trong việc thực hiện các thao tác và các phép tính nhưng khi chưa có phương hướng hoặc chưa có phương hướng tốt thì chưa thể có lời giải hoặc hoặc lời giải tốt.
Người giải toán cần thấy rõ từ chỗ tìm được phương hướng giải bài toán đến việc giải hoàn chỉnh bài toán là cả một quá trình rèn luyện bao gồm nhiều khâu: từ việc nắm vững các kiến thức cơ bản về nội dung lí thuyết và các phương pháp thực hành đến việc luyện tập thành thạo các thao tác có tính chất kĩ thuật. Điều này đòi hỏi tính nghiêm túc, tính kiên nhẫn và một phương pháp làm việc khoa học của người giải toán.
Con người từ khi sinh ra và lớn lên ít nhiều gì cũng có lần mắc sai lầm, việc rèn luyện giải toán cũng thế. Sai lầm trong giải toán của chúng ta do hai nguyên nhân chính là kiến thức và kỹ năng. Việc nắm kiến thức không chính xác, không vững dẫn đến hiểu sai và kỹ năng chưa thành thạo sẽ dẫn đến thất bại lâu dài. Tuy nhiên, chúng ta cần học từ những thất bại bởi “Càng thấy rõ cái sai, càng hiểu sâu cái đúng”. Càng rút ra nhiều bài học kinh nghiệm từ cái sai chúng ta càng nhanh đến thành công hơn.
PHƯƠNG PHÁP GIẢI MỘT BÀI TOÁN
Để giải các bài toán, ngoài việc nắm vững các kiến thức còn cần phải có phương pháp suy nghĩ và kỹ năng trình bày khoa học cùng với những kinh nghiệm cá nhân tích lũy được qua quá trình học tập và rèn luyện.
Phương pháp giải một bài toán thường được tiến hành theo bốn bước:
B1: Tìm hiểu đề toán
B2: Tìm lời giải
B3: Trình bày lời giải
B4: Kiểm tra và nghiên cứu lời giải
1) Tìm hiểu đề toán
Tìm hiểu đề toán là một yêu cầu quan trọng và quyết định trong sự thành bại hay hoặc dở của một lời giải bài toán. Năng lực của người giải toán cũng thể hiện rõ ở bước này. Có một số người giải toán có thói quen không tốt là hễ có bài toán là cứ ghi ghi chép chép và nháp lia lịa, mặc dù chưa biết mình sẽ giải quyết cái gì và những con tính của mình phục vụ cho yêu cầu nào. Bỏ qua mặt này mà giải được bài toán thì hoặc là bài toán quá dễ do có cách giải rõ ràng hoặc là do kết quả ngẫu nhiên của một quá trình mò mẫm.
Để hiểu rõ đề toán, trước tiên phải đọc kĩ đề toán sao cho thấy được toàn bộ nội dung chính của bài toán càng rõ ràng, sáng sủa càng tốt. Đó chính là giả thiết, kết luận và điều kiện của bài toán. Giả thiết là những cái đã cho, cái đã biết; kết luận là cái chưa biết, cái cần tìm, điều phải chứng minh và điều kiện là mối liên quan giữa cái cần tìm và cái đã cho của bài toán.
Đối với bài toán hình học, nói chung phải vẽ hình. Hình vẽ làm hiện lên đồng thời các yếu tố cũng như các tính chất cùng mối liên hệ giữa các yếu tố đã cho trong đề bài. Vì thế, thường sau khi vẽ hình đúng, đề toán được hiểu rõ ràng cụ thể hơn.
Khi vẽ hình cần chú ý:
_ Hình vẽ phải mang tính tổng quát, không nên vẽ hình trong trường hợp đặc biệt vì như thế dễ gây nên ngộ nhận. Chẳng hạn, đối với các đoạn thẳng không nên vẽ bằng nhau, đối với các đường thẳng không nên vẽ vuông góc với nhau, đối với tam giác không nên vẽ cân hay vuông... nếu như bài toán không đòi hỏi.
_ Hình vẽ phải rõ ràng, chính xác dễ nhìn thấy những quan hệ (song song, cắt nhau, vuông góc...) và tính chất (đường trung tuyến, phân giác, tam giác cân, tam giác vuông...) mà bài toán đã cho. Ngoài ra, để làm nổi bật vai trò khác nhau của các đường, các hình trong hình vẽ có thể vẽ bằng nét đậm, nét nhạt, nét liền, nét đứt hoặc dùng nhiều màu khác nhau...
Đối với những bài toán không phải là hình học, ta cũng có thể dùng biểu diễn hình học để diễn tả đề toán, chẳng hạn sơ đồ đoạn thẳng, sơ đồ tư duy hay kí hiệu... Đặc biệt kí hiệu đạt hiệu quả khi chuyển hóa bài toán dưới dạng lời văn sang dạng kí hiệu toán giúp bài toán có cái nhìn rõ ràng xúc tích hơn.
2) Tìm lời giải
Tìm tòi lời giải là bước quan trọng nhất trong hoạt động giải toán. Nó quyết định sự thành công, nhanh hay chậm của việc giải toán. Điều cơ bản ở bước này là biết định hướng đúng để tìm ra được đường đi đúng. Không có một thuật toán tổng quát nào để giải được mọi bài toán cả.
Sau đây là những lời khuyên của người có kinh nghiệm giải toán:
a) Sử dụng các bài toán đã giải. Ngoài việc áp dụng những thuật toán, định lí, định nghĩa hay tính chất của các dữ kiện đã cho trong đề bài thì việc tìm ra hướng đi đúng trong việc giải một bài toán sẽ dễ dàng hơn nếu ta nhớ lại được là ta đã từng giải một bài toán tương tự hoặc gần giống với bài toán cần giải. Thực tế khó mà đặt ra được một bài toán hoàn toàn mới, không giống hay liên quan một chút nào với các bài toán đã có. Mặt khác cũng có thể có rất nhiều bài toán liên quan đến bài toán đang giải. Hãy nhớ lại một bài toán đã được giải và gần giống với bài toán đang xét và lợi dụng nó về phương pháp giải, về kết quả, về kinh nghiệm... Có thể nói gọn đây là bước chuyển bài toán lạ thành quen.
b) Phân tích – Bổ sung – Tổng hợp. Một bài toán, đặc biệt là bài toán khó, thường được tạo ra từ sự kết hợp những bài toán đơn giản hơn. Người giải toán có kinh nghiệm thường phải biết phân tích bài toán đang xét thành những bài toán nhỏ quen thuộc để giải. Từ các kết quả đó ta bổ sung thêm một số chi tiết cần thiết sau đó lại tổng hợp chúng để có được lời giải bài toán ban đầu.
Một số gợi ý cho bước tìm lời giải:
_ Bạn đã gặp bài này lần nào chưa? Có thuật toán, công thức hay tính chất nào để giải không?
_ Xem xét phân tích cái đã biết, cái chưa biết thành các dữ kiện có lợi hơn, các bài toán nhỏ hơn.
_ Có bài toán nào quen, liên quan đến bài này không? Có cần phải đưa thêm một số yếu tố phụ thì mới sử dụng được nó không?
_ Bạn đã sử dụng mọi dữ kiện của bài toán chưa? Đã sử dụng toàn bộ điều kiện chưa? Kết quả của những câu trên có giúp ích cho việc giải câu này không?
_ Nếu bạn chưa giải được bài toán đã đề ra có thể thử giải một bài tổng quát hơn không? Một trường hợp riêng? Một phần bài toán? Có thể biến đổi yêu cầu bài toán từ dạng này sang dạng khác không?
3) Trình bày lời giải
Sau khi đã tìm thấy cách giải rồi thì việc trình bày bài giải không khó khăn như trước nữa, nhưng tính chất công việc có khác nhau. Khi đang tìm kiếm lời giải thì có thể tự do mò mẫm, dự đoán và dùng cách lập luận “tạm thời”. Nhưng khi trình bày lời giải thì phải dùng những lập luận chặt chẽ, phải kiểm tra lại từng chi tiết, nhất là đối với các bài toán phức tạp. Phải trình bày rõ ràng sao cho thấy được sự liên hệ giữa mỗi chi tiết, cũng như sự liên hệ giữa các chi tiết trong từng đoạn của lời giải và trong toàn bộ lời giải ấy. Trình tự trình bày các chi tiết trong lời giải cần phải gọn gàng, mạch lạc, sáng sủa.
4) Kiểm tra và nghiên cứu lời giải
Đây là một bước cần thiết và bổ ích mà trên thực tế ít người giải toán thực hiện nó. Trong khi trình bày lời giải, rất có thể ta đã mắc phải thiếu sót, lầm lẫn ở chỗ nào đó. Việc kiểm tra lại lời giải sẽ giúp ta sửa chữa được những sai sót đáng tiếc đó. Mỗi sai lầm đều cho ta một kinh nghiệm trong hoạt động giải toán. Mặt khác, việc nhìn nhận xem xét lại cách giải, việc phân tích lại kết quả và con đường đã đi cùng phương pháp tiến hành, còn có thể giúp ích cho ta tìm thấy một cách giải khác tốt hơn, hoặc phát hiện ra những sự kiện mới và bổ ích. Phải kiên nhẫn và chịu khó nghiên cứu lời giải tìm được để có thể hoàn thiện cách giải và bao giờ cũng giúp ta hiểu được cách giải sâu sắc hơn. Chính điều đó sẽ làm phong phú thêm kinh nghiệm giải toán, sẽ củng cố và phát triển năng lực giải toán cho bản thân.
Tài liệu tham khảo:
[1] Nguyễn Thái Hòe (2004). Rèn luyện tư duy qua việc giải bài tập toán. NXB Giáo Dục.
[2] Vũ Dương Thụy - Phạm Gia Đức - Hoàng Ngọc Hưng - Đặng Đình Lăng (2001). Thực hành giải toán. NXB Giáo Dục.
Saturday, December 5, 2015
On 9:00 PM by MATH CHANNEL in Phương pháp học Toán 1 comment
Câu chuyện tờ giấy nháp...
Xưa có Dưỡng Do Cơ là tay thần tiễn,
hãnh diện tài ‘bách bộ xuyên dương’ của mình lắm lắm. Có bà lão bán dầu bĩu
môi: “Chỉ là quen tay!” Dưỡng giận, nói: “Bà làm đi!”. Bà lão lấy chai dầu đổ
ra ly, ly đầy có ngọn mà không tràn, rồi bảo Dưỡng: “Ông làm đi!” Dưỡng lắc
đầu: “Phải, quen tay cả thôi.” Muốn quen ắt phải luyện tập.
Trong sự học, tờ giấy nháp chính là
‘luyện võ đường’, nơi ta luyện tập cho quen cách làm cách nghĩ. Giấy nháp càng
nhiều, công phu luyện tập càng cao, nội lực càng thâm hậu. Dưỡng tiên sinh thực
là người đã cảm nghiệm sâu sắc cái đạo lý của lão mẫu bán dầu thuở xưa vậy.
Thế nhưng ở một nước kia vẫn có
không ít sĩ tử lấy việc đi học thêm cho thật nhiều, hết lớp này đến lớp khác là
cần, lấy việc cố công chép đầy vở 100 trang này đến tập 200 trang nọ là đủ để
thành tài vượt được vũ môn.
- Không cần giấy nháp ư?
- Chẳng cần, đã có VINACAL 570ES PLUS II.
- Đủ ư?
- Còn. (...và xòe hai bàn tay trắng ra...đầy chữ)
- ??? (Quả thật chẳng tốn một manh giấy nháp nào...)
Thầy làm trên bảng, chép vào, ấy là
thầy thực hành. Bấm Casio, ấy là máy thực hành. Xưa nay chưa từng nghe nhìn
người khác ăn mà bản thân mình no, nhìn người khác uống mà bản thân mình hết
khát, nhìn người khác tập thể dục mà bản thân mình khỏe mạnh bao giờ. Phàm ai
ăn nấy no, ai tập nấy khỏe, ấy là cái đạo lý xưa nay vậy. Ôi thế mà trong học
tập lại có ý cứ nhìn người khác tập luyện cho thật nhiều là mình có được các kĩ
năng kĩ xảo cần thiết thì chẳng phải là làm trò cười cho kẻ sĩ trong thiên hạ
ư?!
Nói đi phải nói lại, nói các sĩ tử
không sử dụng giấy nháp thì không đúng, các bạn ấy có sử dụng giấy nháp “một
cách sáng tạo”. Có bạn tranh thủ sự tiện lợi bằng cách xé một manh giấy nháp
nhỏ trong tập mình đang học ra làm nháp và kết quả là một tờ giấy tập đẹp thành
miếng giấy nham nhở. Ngoài việc ngồi chờ thầy cô, bạn bè sửa bài trên bảng rồi
chép vào cho sạch đẹp, lại có không ít các bạn khác làm bài bằng viết chì hoặc dùng bút xóa, làm sai thì bôi xóa thậm chí là dùng những miếng dán nhỏ xíu để
che lấp cái sai của mình. Hỡi ôi! Các bạn có biết rằng học kiểu này chẳng bao
giờ tiến bộ, bởi khi sai ta chỉ cần dùng thước gạch một đường xéo và sửa ngay
bên cạnh bài sai bằng bài đúng thì sau này khi ôn bài ta biết trước đây ta sai
như thế nào và tránh cái sai đó, các bạn xóa sạch cái bài sai thì đâu còn biết
đã từng sai ra sao mà rút kinh nghiệm. Ấy là chưa nói đến dùng bút xóa, miếng
dán, làm bút chì rồi đồ lại bằng bút mực vừa tốn tiền, mất thời gian mà còn hệ
lụy nếu giám khảo phát hiện cách làm trên trong bài thi thì sẽ gán cho cái lỗi
“đánh dấu bài” và có tiếc nuối thì cũng đã muộn màng.


Subscribe to:
Posts (Atom)
Search
Popular Posts
-
SƠ ĐỒ NHẬN BIẾT CÁC LOẠI TỨ GIÁC DẤU HIỆU NHẬN BIẾT CÁC HÌNH Hình thang cân 1. Hình thang có hai góc kề một đáy bằng nhau là hìn...
-
$\boxed{\text {Bổ đề hình thang: }}$ Trong hình thang hai đáy không bằng nhau, giao điểm của hai đường thẳng chứa hai cạnh bên, giao điể...
-
SƠ ĐỒ NHẬN BIẾT CÁC LOẠI TAM GIÁC DẤU HIỆU NHẬN BIẾT CÁC HÌNH Tam giác cân 1. Tam giác có hai cạnh bằng nhau là tam giác cân....
-
$\boxed{\text {Bài toán 1: }}$ (Đề thi HKII 2008-2009 Q11 TpHCM) Cho tam giác ABC có các góc đều nhọn và có ba đường cao là AD, BE, CF c...
-
$\boxed{\text {Bài toán: }}$ Cho O, H, G lần lượt là tâm đường tròn ngoại tiếp, trực tâm, trọng tâm của $\triangle$ ABC. Chứng minh rằng...
-
Để tìm ƯCLN, BCNN của các số tự nhiên, người ta thường dùng những cách sau: Cách 1 : Phân tích các số ra thừa số nguyên tố Vd: Tìm ƯC...
-
Bạn cần download tài liệu, ebook,... phục vụ cho việc học tập nghiên cứu từ các trang Scribd, Issuu, Slideshare và Academia một cách nhanh...
-
Chương trình Tìm Ước chung lớn nhất và Bội chung nhỏ nhất của một dãy các số tự nhiên import java.util.Scanner; public class Main ...
-
Dãy số Fibonacci được định nghĩa như sau: F[0] =1, F[1] = 1; F[n] = F[n-1] + F[n-2] với n>=2. Hãy viết chương trình tìm số Fibonacci thứ ...
-
Chương trình chuyển đổi một số tự nhiên ở hệ thập phân thành số ở hệ nhị phân, bát phân, thập lục phân và hệ cơ số bất kì import java.u...
Recent Posts
Categories
- Công nghệ thông tin
- Đại số 10
- Đại số 7
- Đại số 8
- Đại số 9
- Đề thi Toán 6
- Đề thi Toán 7
- Đề thi Toán 8
- Đề thi Toán 9
- Đố Toán
- Grade 6 Math
- Grade 8 Math
- Grade 9 Math
- Hình học 6
- Hình học 7
- Hình học 8
- Hình học 9
- Khác
- Lập trình Java cơ bản
- Math Puzzles
- Mathematical game
- Phương pháp học Toán
- Số học 6
- Số và Đại số 6
- Toán tham khảo 6
- Toán tham khảo 8
- Toán tham khảo 9
- Toán thực tế
- Toán và cuộc sống
My Fanpage
Số lượt xem
Hỗ Trợ Trực Tuyến
Vườn Toán - Tin học. Powered by Blogger.